Tuyên truyền cho học sinh Tiểu học hiểu và phòng tránh bệnh cận thị
TUYÊN TRUYỀN CHO HỌC SINH HIỂU VÀ PHÒNG
TRÁNH BỆNH CẬN THỊ
Mắt của người bình thường
khi nhìn ảnh của vật hiện đúng trên võng mạc, nên nhìn rõ sự vật. Đối với người
bị cận thị, ảnh của vật nằm trước võng mạc, nên nhìn vật ở xa thì bị mờ, nhìn
vật ở gần mới rõ.
1. Khái niệm về bệnh cận thị.
Cận thị là tật khúc xạ
làm cho mắt chỉ nhìn thấy vật ở gần trước mắt chứ không thấy vật ở xa.
2. Nguyên nhân gây cận thị ở trẻ.
- Trẻ thiếu ngủ
hoặc ít ngủ: đặc biệt là từ 7 - 9 tuổi và 12 - 14 tuổi, trong khoảng thời gian
này nếu trẻ ngủ quá ít hoặc do không đủ thời gian để ngủ vì cha mẹ bắt học quá
nhiều rất dễ gây ra cận thị.
- Trẻ sinh ra mà
trọng lượng cơ thể quá nhẹ: hầu hết trẻ sinh ra với trọng lượng cơ thể dưới 2,5
kg, đến tuổi thiếu niên đều bị cận thị.
- Trẻ sơ sinh thiếu tháng: trẻ sinh thiếu tháng từ 2 tuần trở lên thường
bị cận thị từ khi học vỡ lòng.
- Bố mẹ bị cận thị rất dễ di truyền sang con cái: mức độ di truyền này
liên quan mật thiết với mức độ cận thị của bố mẹ.
- Thiếu ánh
sáng khi đọc và viết.
- Bàn ghế
không phù hợp với lứa tuổi học sinh, bàn quá cao làm cho mắt gần với sách vở,
tư thế sai khi ngồi học (cúi gằm, nhìn gần).
- Sử dụng
mắt nhìn gần: Đọc sách, đọc truyện quá nhiều trong thời gian dài không có thời
gian thư giãn, trẻ xem ti-vi quá gần.
Cận
thị có 2 loại chính.
+ Cận thị đơn thuần (cận thị học đường);
+ Cận thị tiến triển (cận thị do di truyền).
3. Triệu
chứng của cận thị.
- Nhìn không rõ chữ trên bảng.
- Nheo mắt để cố gắng nhìn rõ vật ở xa.
- Đọc sách quá gần mắt.
- Hay mệt
mỏi nhức đầu.
4. Tác hại của cận thị.
- Mắt kém phải gần để đọc và viết chậm, không nhìn rõ chữ viết và hình vẽ ở
trên bảng nếu không được đeo kính. Học sinh cận thị thường học chóng mặt, mệt
mỏi, nhức đầu.
- Người bị cận thị thường dễ mắc các tai nạn trong lao động, sinh hoạt và giao
thông ....do nhìn không rõ.
- Bệnh cận thị nếu không được phát hiện sẽ gây rối loạn thị giác nhược thị, lác
và bệnh cận thị nặng sẽ gây bong võng mạc.
II. Một số biên pháp phòng
tránh:
1. Giữ đúng tư thế ngồi khi
học.
- Ngồi thẳng lưng, hai chân
khép, hai bàn chân để ngay ngắn sát nền nhà, đầu cúi 10-15 độ. Khoảng cách từ
mắt đến sách vở trên bàn học là 25 cm đối với học sinh tiểu học, 30 cm với học
sinh trung học cơ sở, 35 cm với học sinh trung học phổ thông và người lớn. Thầy
cô giáo và cha mẹ học sinh phải thường xuyên nhắc nhở, không để các em cúi gằm
mặt, nghiêng đầu, áp má lên bàn học khi đọc hoặc viết.
- Lớp học phải đủ ánh sáng, độ chiếu sáng tối thiếu trong lớp 100lux. Chiếu
sáng có 2 loại: Chiếu sáng tự nhiên(asmt) và chiếu sáng nhân tạo( hệ thống đèn
điện)
- Để tăng cường sự phản chiếu ánh sáng, trần lớp học quyét vôi trắng, tường
quét vôi màu vàng nhạt.
-
Kích thước bàn ghế cho các cấp học, lớp học phải theo quy định về vệ sinh
trường học.
- Bảng sơn đen hoặc xanh thẫm,
không bị loá, chữ viết nét đậm, đảm bảo chiều cao 4cm.
-
Khi đọc sách buổi tối, cần đèn đủ sáng và có chụp phản chiều. Không dùng đèn
ống neon, nên dùng bóng điện dây tóc.
-
Không viết mực đỏ, mực xanh lá cây. Không đọc sách có chữ quá nhỏ in trên giấy
vàng hoặc giấy đen, vì tỷ lệ tương phản giữa chữ và nền quá nhỏ, khiến mắt bị
mệt.
-
Duy trì mỗi tiết học 45 phút, sau đó nghỉ giải lao, đưa mắt nhìn xa, hết co
thắt thị giác rồi mới bước vào giờ học tiếp theo.
2. Bỏ những thói quen có hại cho mắt.
- Không nằm, quỳ
để đọc sách hoặc viết bài.
- Không đọc sách
báo, tài liệu khi đang đi trên ô tô, tàu hỏa, máy bay.
- Khi xem ti vi,
video phải ngồi cách xa màn hình tối thiểu 2,5 m, nơi ánh sáng phòng phù hợp.
Thời gian xem cần ngắt quãng, không quá 45-60 phút mỗi lần xem.
- Không tự ý
dùng kính đeo mắt không đúng tiêu chuẩn. Khi đeo kình cần tuân thủ hướng dẫn
của nhà chuyên môn.
Y tế học đường: Phạm Thị Hoa